Khả năng biểu hiện tâm trạng
Câu ca dao:
“Thuyền ai đậu bến sông Quanh Có buồm giương, có cánh lái Buồm giương cao là buồm người yêu Cánh lái thấp là buồm người xa”
Câu ca dao trên sử dụng thể thơ lục bát để thể hiện tâm trạng của người con gái đang chờ đợi người yêu. Hình ảnh “buồm giương cao” là biểu tượng cho người yêu đang ở gần, còn “cánh lái thấp” là biểu tượng cho người yêu đang ở xa. Qua đó, người con gái thể hiện niềm mong mỏi, khát khao được gặp lại người yêu.
Đoạn thơ trong Truyện Kiều:
“Trăm năm trong cõi người ta Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau Trải qua một cuộc bể dâu Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”
Đoạn thơ trên sử dụng thể thơ lục bát để thể hiện tâm trạng của Thúy Kiều khi nhận ra thân phận của mình. Kiều đã trải qua nhiều sóng gió, đau khổ trong cuộc đời, và cô nhận ra rằng chữ tài và chữ mệnh là hai thứ không thể hòa hợp với nhau. Kiều đau đớn, xót xa trước thực tại nghiệt ngã của cuộc đời.
Khả năng kể chuyện, thuật việc
Câu ca dao:
“Chiều chiều ra đứng ngõ sau Trông về quê mẹ ruột đau như cắt Có ai qua đó thì nhắn với mẹ Cháu về thăm mẹ, mẹ đợi con về”
Câu ca dao trên sử dụng thể thơ lục bát để kể về tâm trạng của người con trai đi xa quê hương. Anh nhớ nhà, nhớ mẹ, và anh mong muốn được trở về quê hương đoàn tụ với gia đình.
Đoạn thơ trong Truyện Kiều:
“Một mình mình, quạnh hiu một mình Tựa gối đầu giường, dở khóc dở cười Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Đoạn thơ trên sử dụng thể thơ lục bát để kể về tâm trạng của Kiều khi bị Tú Bà ép bán mình. Kiều đau khổ, tuyệt vọng, cô không biết phải làm thế nào. Kiều đã tự trách bản thân, và cô cũng cảm thấy buồn tủi, chán nản trước cảnh vật xung quanh.
Tóm lại, thể thơ lục bát có khả năng biểu hiện tâm trạng và kể chuyện, thuật việc một cách phong phú, đa dạng. Thể thơ này có thể thể hiện được những cung bậc cảm xúc khác nhau của con người, từ niềm vui, nỗi buồn, đến sự giận dữ, căm hờn,… Thể thơ lục bát cũng có thể kể lại những câu chuyện, sự việc một cách sinh động, hấp dẫn, lôi cuốn người đọc.
Câu 6: (Trang 200, SGK Ngữ Văn 9 Tập 2)
Cách trần thuật
Truyện ngắn hiện đại:
Truyện ngắn hiện đại thường sử dụng ngôi thứ nhất hoặc ngôi thứ ba để kể chuyện. Ngôi thứ nhất là lời kể của nhân vật trong truyện, ngôi thứ ba là lời kể của người kể chuyện.
Ví dụ, trong truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao, tác giả sử dụng ngôi thứ nhất để kể chuyện từ góc nhìn của ông giáo, một người hàng xóm của lão Hạc. Ngôi thứ nhất giúp người đọc dễ dàng đồng cảm, thấu hiểu tâm trạng của lão Hạc.
Trong truyện ngắn Bến quê của Nguyễn Minh Châu, tác giả cũng sử dụng ngôi thứ nhất để kể chuyện từ góc nhìn của người kể chuyện xưng tôi. Ngôi thứ nhất giúp người đọc cảm nhận được những suy nghĩ, cảm xúc của nhân vật chính một cách chân thực, gần gũi.
Truyện thời trung đại:
Truyện thời trung đại thường sử dụng ngôi thứ ba để kể chuyện. Ngôi thứ ba giúp tác giả có thể dễ dàng miêu tả, kể lại những sự kiện, hành động của nhân vật một cách khách quan, toàn diện.
Ví dụ, trong truyện Thầy thuốc giỏi cốt nhát ở tấm lòng của Hồ Nguyên Trừng, tác giả sử dụng ngôi thứ ba để kể chuyện. Ngôi thứ ba giúp tác giả có thể miêu tả chi tiết những hành động, lời nói của nhân vật, từ đó thể hiện được tính cách, phẩm chất của nhân vật.
Trong truyện Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ, tác giả cũng sử dụng ngôi thứ ba để kể chuyện. Ngôi thứ ba giúp tác giả có thể kể lại một cách khách quan, đầy đủ những sự kiện, hành động của nhân vật, từ đó thể hiện được số phận bi kịch của nhân vật Vũ Nương.
Xây dựng nhân vật
Truyện ngắn hiện đại:
Nhân vật trong truyện ngắn hiện đại thường được xây dựng theo hướng hiện thực, gần gũi với đời sống. Nhân vật thường có những nét tính cách, tâm lý phức tạp, được thể hiện qua những chi tiết, lời thoại, hành động cụ thể.
Ví dụ, nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao là một người nông dân nghèo khổ, chất phác, nhưng có lòng tự trọng cao. Lão Hạc đã phải bán đi con chó Vàng mà lão yêu quý để dành tiền lo cho con trai. Hành động đó thể hiện tấm lòng thương con, sự cao cả của lão Hạc.
Nhân vật người đàn ông trong truyện ngắn Bến quê của Nguyễn Minh Châu là một người nông dân chân chất, mộc mạc, nhưng có những suy nghĩ, cảm xúc phức tạp. Nhân vật đã có những phút giây suy tư, trăn trở về cuộc đời, về giá trị của cuộc sống.
Truyện thời trung đại:
Nhân vật trong truyện thời trung đại thường được xây dựng theo hướng lí tưởng, mang những phẩm chất đạo đức tốt đẹp của người quân tử, người phụ nữ đức hạnh. Nhân vật thường được thể hiện qua những lời kể, bình luận của tác giả.
Ví dụ, nhân vật thầy thuốc trong truyện Thầy thuốc giỏi cốt nhát ở tấm lòng của Hồ Nguyên Trừng là một người thầy thuốc giỏi, nhưng lại rất nhát gan. Tuy nhiên, khi gặp phải tình huống nguy cấp, thầy thuốc đã dũng cảm cứu sống người bệnh. Hành động đó thể hiện tinh thần cao đẹp của người thầy thuốc.
Nhân vật Vũ Nương trong truyện Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ là một người phụ nữ đức hạnh, thủy chung. Vũ Nương đã bị chồng nghi oan, tước đoạt quyền làm người, cuối cùng phải trầm mình xuống sông tự vẫn. Số phận bi kịch của Vũ Nương thể hiện sự bất công, tàn nhẫn của xã hội phong kiến.
Tóm lại, cách trần thuật và xây dựng nhân vật trong truyện ngắn hiện đại và truyện thời trung đại có những điểm khác biệt cơ bản. Truyện ngắn hiện đại thường sử dụng ngôi thứ nhất hoặc ngôi thứ ba, xây dựng nhân vật theo hướng hiện thực, gần gũi với đời sống. Truyện thời trung đại thường sử dụng ngôi thứ ba, xây dựng nhân vật theo hướng lí tưởng, mang những phẩm chất đạo đức tốt đẹp của người quân tử, người phụ nữ đức hạnh.
Với những hướng dẫn Soạn bài Tổng kết phần Văn học (tiếp theo) – Ngữ văn 9 chi tiết như trên. Hy vọng sẽ giúp các bạn nắm được những ý chính của học phần này. Chúc các bạn có những bài soạn thật tốt, để thuận tiện trong quá trình tiếp thu bài giảng.
Bình Luận