Hướng dẫn soạn bài Viết bài nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm kí Ngữ văn 12 tập 1 Cánh diều chi tiết, đầy đủ nhất. Thông qua việc thực hành trả lời các câu hỏi trong phần hướng dẫn và bài tập, chúng ta có thể củng cố kiến thức cơ bản về bài học này.

Định hướng

1.1. Nghị luận so sánh và đánh giá hai tác phẩm kí

Trong Bài 1, các em đã được hướng dẫn cách viết bài nghị luận so sánh và đánh giá hai tác phẩm truyện, tập trung vào vai trò của yếu tố kỳ ảo trong truyện truyền kỳ và truyện cổ tích. Bài 3 này tiếp tục phát triển kỹ năng đó, nhưng lần này chúng ta sẽ tập trung vào việc so sánh một yếu tố nổi bật về nội dung hoặc hình thức giữa hai tác phẩm kí (thông qua các đoạn trích).

1.2. Hướng dẫn viết bài nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm kí

Để viết tốt một bài nghị luận so sánh và đánh giá hai tác phẩm kí, các em cần chú ý những điểm sau:

Thực hành

2.1. Thực hành viết theo các bước

Bài tập: So sánh nghệ thuật trần thuật của các tác giả qua hai đoạn trích “Nhật kí Đặng Thuỳ Trâm” (Đặng Thuỳ Trâm) và “Một lít nước mắt” (Ki-tô A-ya).

a) Chuẩn bị

b) Tìm ý và lập dàn ý

Tìm ý: Đặt và trả lời các câu hỏi quan trọng:

Lập dàn ý: Sắp xếp các ý theo ba phần: Mở bài, Thân bài, và Kết bài.

c) Viết

Bài mẫu tham khảo:

Nhật ký là một thể loại văn học độc đáo, nơi tác giả có thể chia sẻ những cảm xúc chân thật nhất, những trải nghiệm cá nhân sâu sắc nhất. “Nhật ký Đặng Thùy Trâm” là một trong những tác phẩm nổi bật trong thể loại này, mang đến cho người đọc những dòng tâm tư chân thành và đầy cảm xúc về cuộc sống và chiến đấu của một nữ bác sĩ trong thời kỳ kháng chiến. So sánh với “Nhật ký Đặng Thùy Trâm”, đoạn trích từ “Một lít nước mắt” của Ki-tô A-ya cũng là một câu chuyện đầy xúc động, kể về hành trình chiến đấu với bệnh tật của một cô bé. Cả hai tác phẩm không chỉ để lại ấn tượng sâu sắc về cảm xúc và ý nghĩa nhân văn mà còn nổi bật với nghệ thuật trần thuật đặc sắc.

Trong cả hai tác phẩm, nghệ thuật trần thuật được thể hiện qua ngôi kể thứ nhất, nơi người kể chuyện chính là tác giả. Điều này tạo nên sự gần gũi và chân thực, giúp người đọc cảm nhận được những gì tác giả đã trải qua bằng tất cả giác quan và cảm xúc của mình. Ngôi kể thứ nhất không chỉ là công cụ để ghi lại những sự kiện mà còn là cách để tác giả tâm sự, trò chuyện với chính bản thân mình, tạo nên một mối liên kết mạnh mẽ giữa tác giả và người đọc.

Nội dung của hai tác phẩm cũng tập trung vào những trải nghiệm cá nhân và những khó khăn mà tác giả phải đối mặt. Trong “Nhật ký Đặng Thùy Trâm”, tác giả chia sẻ về công việc hàng ngày, những câu chuyện về những thanh niên kiên cường, cũng như sự hy sinh tuổi trẻ cho cuộc chiến đấu vì độc lập tự do. Trong khi đó, “Một lít nước mắt” kể về cuộc sống của A-ya, một cô bé phải chống chọi với căn bệnh hiểm nghèo, nhưng vẫn giữ được tinh thần lạc quan, hy vọng vào tương lai. Dù hoàn cảnh khác nhau, cả hai tác giả đều thể hiện sự kiên cường, lạc quan trong cuộc sống đầy khó khăn.

Mặc dù có nhiều điểm tương đồng về mặt cảm xúc và tinh thần, nhưng hoàn cảnh và mối quan hệ xã hội của hai tác giả lại rất khác nhau. Đặng Thùy Trâm là một bác sĩ trong thời chiến, thường xuyên tiếp xúc với nhiều người, trong khi A-ya chủ yếu sống trong vòng tay của gia đình, đặc biệt là người mẹ. Sự khác biệt này tạo ra những sắc thái tình cảm khác nhau trong mỗi tác phẩm. Đặng Thùy Trâm không chỉ bày tỏ tình yêu thương đối với gia đình mà còn dành tình cảm sâu sắc cho những người bạn chiến đấu của mình. Còn A-ya, tình yêu thương của cô bé chủ yếu tập trung vào người mẹ – người luôn bên cạnh chăm sóc và động viên cô.

Một yếu tố đặc biệt khác trong nghệ thuật trần thuật của hai tác phẩm là sự kết hợp tinh tế giữa kể chuyện, miêu tả, nghị luận và trữ tình. Trong “Nhật ký Đặng Thùy Trâm”, sự kết hợp này giúp tác giả không chỉ kể lại sự kiện mà còn miêu tả chi tiết những cảm xúc, tâm trạng của mình. Tương tự, trong “Một lít nước mắt”, Ki-tô A-ya cũng sử dụng những hình ảnh miêu tả tinh tế để truyền tải cảm xúc và những suy nghĩ sâu sắc về cuộc sống và bệnh tật.

Tóm lại, cả “Nhật ký Đặng Thùy Trâm” và “Một lít nước mắt” đều là những tác phẩm tự sự đặc sắc, không chỉ mang đến những câu chuyện đầy cảm xúc mà còn thể hiện rõ nét nghệ thuật trần thuật độc đáo của mỗi tác giả. Qua những dòng tự sự, người đọc có thể cảm nhận được sức mạnh của ý chí, lòng kiên cường, và tinh thần lạc quan trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. Những áng văn này không chỉ là những trang nhật ký cá nhân mà còn là những bài học quý giá về cuộc sống, về lòng dũng cảm và niềm tin vào tương lai.

d) Rà soát và hoàn thiện

Để đảm bảo chất lượng cho bài viết, hãy tham khảo các hướng dẫn chi tiết đã được đề cập ở Bài 1, phần Viết, mục d (trang 39 – 40). Đối chiếu cẩn thận với dàn ý mà bạn đã lập cho bài viết này để đảm bảo tính logic, đầy đủ và sự liên kết chặt chẽ giữa các phần. Việc kiểm tra và chỉnh sửa kỹ lưỡng sẽ giúp bài viết trở nên rõ ràng, mạch lạc và có sức thuyết phục cao hơn.

2.2. Rèn luyện kỹ năng viết: Vận dụng tổng hợp các thao tác nghị luận

a) Cách thực hiện

Trong văn nghị luận, để làm rõ một vấn đề và thuyết phục người đọc, người viết cần tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau. Điều này đòi hỏi phải đặt ra và trả lời các câu hỏi như: Vấn đề đó là gì? Những khía cạnh nào cần được xem xét? Vấn đề này mang lại ý nghĩa và giá trị gì? Và vấn đề này được thể hiện ra sao trong đời sống cũng như trong văn chương?

Khi trả lời những câu hỏi này, người viết đang sử dụng các thao tác nghị luận như giải thích, chứng minh, phân tích, bác bỏ, so sánh và bình luận. Tuy nhiên, không phải bài văn nghị luận nào cũng cần sử dụng tất cả các thao tác này. Tùy vào chủ đề và đối tượng mà người viết lựa chọn, kết hợp một số thao tác để đạt hiệu quả tối ưu.

Để vận dụng tổng hợp các thao tác nghị luận, bạn cần:

b) Bài tập: Đọc đoạn văn dưới đây và chỉ ra các thao tác lập luận được sử dụng.

Đoạn văn:

“Tôi đọc nhật kí của An-nơ Phrăng (Anne Frank) khi còn là sinh viên, mà nay tôi đã 52 tuổi. Nhật kí An-nơ Phrăng khi ấy là tác phẩm bắt buộc đọc đối với các sinh viên Mỹ. Vì là người Mỹ gốc Do Thái, tôi thật sự bị lay động khi đọc nó. Tôi tin rằng có nhiều điểm tương đồng giữa nhật kí của Phrăng và của Trâm. Chúng đều viết về tình yêu và nỗi buồn, về sự tức giận và sự cam chịu. Tuy nhiên, từ quan điểm của một người Mỹ, hai tình huống này có phần khác biệt. Có lẽ người Mỹ dễ thông cảm với An-nơ Phrăng hơn, vì phát xít Đức đã từng là kẻ thù của chúng tôi và họ đã gây ra những cuộc tàn sát kinh khủng nhất trong lịch sử. Còn đối với nhật kí của Trâm, một vài người Mỹ, tôi muốn nhấn mạnh là rất ít thôi, có thể sẽ gặp một chút khó khăn khi bị xúc động vì một người đã từng là đối thủ của mình. Nhưng tôi nghĩ hầu hết những người Mỹ đã từng đọc cuốn nhật kí này đều tin và nhận ra rằng tất cả chúng ta đều là những con người, với cùng một tình yêu cuộc sống, gia đình và đất nước. Và rằng bác sĩ Trâm, mặc dù cô ấy đã căm thù sôi sục những người Mỹ hiếu chiến, nhưng chung quy, cô ấy đã đơn giản viết lên những gì mình nhìn thấy và cảm nhận, với tư cách một người bình thường trên Trái Đất này khi phải sống trong một thời kì vô cùng khắc nghiệt.”

(Theo Đa-vít Peo-mát (David Perlmutt), 2005, theo tuoitre.vn, 13-10-2005)

Gợi ý trả lời:

Người viết đã sử dụng kết hợp các thao tác lập luận giải thích, chứng minh và so sánh. Cụ thể, thao tác so sánh được thể hiện rõ qua câu văn: “Tôi tin rằng có nhiều điểm tương đồng giữa nhật kí của Phrăng và của Trâm… Tuy nhiên, từ quan điểm của một người Mỹ, hai tình huống này có phần khác biệt.” Sau đó, tác giả tiếp tục sử dụng thao tác phân tích và chứng minh để làm rõ sự khác biệt giữa hai hoàn cảnh. Thao tác giải thích và chứng minh được sử dụng khi tác giả đưa ra lí lẽ rằng người Mỹ dễ dàng cảm thông với An-nơ Phrăng hơn là với nhật kí của Trâm, bởi vì “phát xít Đức đã từng là kẻ thù… và họ đã gây ra những cuộc tàn sát kinh khủng nhất trong lịch sử.”

Với những hướng dẫn soạn bài Viết bài nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm kí Ngữ văn 12 tập 1 Cánh diều chi tiết như trên. Hy vọng sẽ giúp các bạn nắm được những ý chính của bài học này. Chúc các bạn có những bài soạn thật tốt, để thuận tiện trong quá trình tiếp thu bài giảng.