Nhà thơ Hữu Thỉnh đã mở ra một không gian cao rộng với những nét hữu hình cụ thể: dòng sông dềnh dàng, đàn chim vội vã và đám mây mùa hạ. Dòng sông được nhân hóa qua từ “dềnh dàng” gợi sự chậm chạp, thong thả, mềm mại như muốn được nghỉ ngơi. Phải chăng đó cũng là tâm trạng của con người như chậm lại để ngẫm ngợi nghĩ suy về những trải nghiệm trong cuộc đời. Đối lập với trạng thái dềnh dàng của dòng sông là sự vội vã của những cánh chim. Nghệ thuật nhân hóa khiến hình ảnh đàn chim trở nên thật sống động. Dường như chim cũng tinh tế như con người, cảm nhận được cái giao mùa thầm lặng đang đến mà nhanh chóng bay về phương nam tránh rét. Nhưng sự “vội vã” ấy cũng chỉ mới bắt đầu bởi thu cũng chỉ mới chớm đến với đất trời. Hình ảnh được sáng tạo độc đáo, gợi cảm nhất trong bài thơ có lẽ chính là hình ảnh đám mây “vắt nửa mình sang thu”. Đám mây mềm mỏng, lững lờ trôi tựa như tấm khăn voan trắng xóa vắt ngang qua bầu trời xanh. Bầu trời ấy một nửa vẫn còn là mùa hạ, một nửa đã nghiêng mình sang thu. Đám mây cũng được nhân hóa như mang tình cảm, suy nghĩ của con người. Cũng giống như làn sương “chùng chình”, con sông “dềnh dàng”, đám mây “vắt nửa mình” như còn dùng dằng, bịn rịn, quyến luyến với mùa hạ. Nhà thơ đã mượn cái hữu hình là đám mây để gợi ra cái vô hình là khoảnh khắc giao mùa. Qua cách diễn tả độc đáo ấy, đám mây hiện lên như một cầu nối giữa mùa hạ và mùa thu. Bằng những cảm nhận vô cùng tinh tế, Hữu Thỉnh đã diễn tả chính xác cái ranh giới mong manh hư ảo trong khoảnh khắc giao mùa.
Kết thức bài thơ “Sang thu”, nhà thơ Hữu Thỉnh đã gửi gắm những suy tư, chiêm nghiệm của mình về cuộc đời:
“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”.
Từ mùa thu của thiên nhiên đất trời, tác giả kết thúc với hình ảnh mùa thu trong tâm tưởng con người. Vẫn là “nắng, mưa, sấm”-những hiện tượng đặc trưng của mùa hạ nhưng mức độ đã dần khác đi. Bằng phép đảo ngữ và tăng tiến, sử dụng những từ chỉ trạng thái, mức độ “vẫn còn”, “đã vơi”, tác giả càng nhấn mạnh vào sự dùng dằng, giao thoa giữa hạ và thu. Hai câu thơ cuối kết thúc bài thơ mang đầy trăn trở, suy nghĩ của nhà thơ về mùa thu của cuộc đời với biện pháp ẩn dụ độc đáo. “Sấm” chính là ẩn dụ cho những vang động, những thử thách, khó khăn, vất vả của cuộc đời. “Hàng cây đứng tuổi” chỉ những con người từng trải, đã vượt qua nhiều thử thách trong cuộc sống. Sang thu, sấm nhỏ dần, không còn đủ sức để lay động những hàng cây đã bao mùa thay lá hay phải chăng, chính con người khi bước vào tuổi xế chiều cũng không còn lo lắng, sợ hãi trước những biến cố của cuộc đời. Con người khi bước vào cái tuổi “sang thu” cũng trở nên sâu sắc hơn, chín chắn hơn và vững vàng hơn trước những khó khăn, thử thách bất ngờ của cuộc đời. “Sang thu” không chỉ là sự chuyển giao của thiên nhiên đất trời mà còn là sự chuyển giao cuộc đời mỗi con người. Đặt trong hoàn cảnh sáng tác của bài thơ, hàng cây đứng tuổi còn tượng trưng cho đất nước ta đã trải qua bao hy sinh, mất mát, thiếu thốn, gian khổ của cuộc chiến dựng nước và giữ nước. Bởi vậy, dù đất nước đã hòa bình, với những gian khó trước mắt, dân tộc ta sẽ càng trở nên kiên cường, bất khuất, vững vàng phát triển đi lên.
Với thể thơ năm chữ, cách ngắt nhịp linh hoạt, giọng điệu tự nhiên, nhẹ nhàng, ngôn ngữ hình ảnh trong sáng, tinh tế giàu sức gợi, sức biểu cảm, Hữu Thỉnh đã gửi đến người đọc một bức tranh thiên nhiên lúc sang thu thật sự đẹp, thật duyên, thật tinh tế của một tâm hồn yêu thiên nhiên, quê hương tha thiết. “Sang Thu” của Hữu Thỉnh đã góp vào bản hòa ca mùa thu của quê hương, đất nước một tiếng nói riêng, đầy thi vị, ám ảnh, xúc động.
Hướng dẫn soạn bài Củng cố, mở rộng trang 70 – Sách kết nối tri thức lớp 10 tập 1 chi tiết, đầy đủ nhất. Thông qua việc thực hành trả lời các câu hỏi trong phần hướng dẫn và bài tập, chúng ta có thể củng cố kiến thức cơ bản về tác phẩm này.
Bình Luận