Mẫu 5
Bài thơ “Vội Vàng” của Xuân Diệu, xuất phát từ tập “Thơ thơ,” là một tác phẩm tuyệt vời thể hiện sự sống mãnh liệt, hết mình, và không lỡ mất bất kỳ khoảnh khắc nào trong cuộc sống. Xuân Diệu, với tâm hồn trẻ trung, luôn mang theo mình một hồn thơ đầy yêu đời, tận dụng hết mọi điều tốt đẹp mà cuộc sống mang lại.Xuân Diệu được ví là ông hoàng thơ tình, luôn có những dòng thơ lãng mạn. Trong đó, khổ thơ thứ nhất và thứ 2 đã tôn vinh tình yêu nồng cháy, mãnh liệt, hết mình. Khi phân tích 10 câu cuối bài Vội Vàng, chúng ta trả lời được câu hỏi như thế nào là sống vội?
Mẫu 6
Xuân Diệu là cái tên không hề xa lạ trong văn đàn Việt Nam. Ông được mệnh danh là ” nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. Thơ của ông mang màu sắc tươi mới, tràn trề sức sống và chứa đựng khát khao mãnh liệt được tận hưởng cuộc đời. Tình yêu cái đẹp và yêu cuộc sống của ông được thể hiện vô cùng sâu sắc qua trong bài thơ “Vội vàng”. Đặc biệt là 10 câu thơ cuối của tác phẩm với khát vọng tận hưởng mãnh liệt. Hồn thơ Xuân Diệu cực kỳ nhạy cảm với những bước đi của thời gian. Bởi thời gian một đi sẽ không trở lại nên trong suy nghĩ của Với Xuân Diệu, khoảng thời gian đẹp đẽ và đáng sống nhất là tuổi trẻ với đam mê và tình yêu say đắm. Tuổi trẻ tràn trề sức sống và rực cháy những hoài bão, sống và cống hiến hết mình. Tuổi trẻ đẹp nhưng ngắn ngủi và trôi mau. Có lẽ vì vậy mà Xuân Diệu luôn sống vội vàng, có phần gấp gáp và luôn yêu say đắm.
Mẫu 1
Vội vàng là một bài thơ hay của nhà thơ Xuân Diệu in trong tập: “Thơ thơ” xuất bản năm 1938. Bài thơ đã để lại cho các thế hệ học trò một ấn tượng sâu sắc về Xuân Diệu, cùng một quan niệm nhân sinh hết sức mới mẻ hiện đại của ông. Xuân Diệu không lẩn trốn thực tại mà quấn quýt lấy cõi trần:
Không muốn đi mãi mãi ở vườn trần
Chân hoá rễ để hút mùa dưới đất
(Thanh niên)
Kẻ đựng trái tim trìu máu đất
Hai tay chín móng bám vào đời
(Hư vô)
Xuân Diệu luôn có ý thức về sự trôi chảy của thời gian. Trong thơ ông chịu ảnh hưởng nhiều của trường phái thơ tượng trưng Pháp. Khi còn trẻ ông đã nghe Baudelaire rên xiết: Ôi đau đớn !Ôi đau đớn !Thời gian ăn cuộc đời
Xuân Diệu sợ thời gian, ghét thời gian:
Gấp lên em anh rất sợ ngày mai
Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn
(Giục giã)
Xuân Diệu luôn vội vàng , cuống quýt lo sợ cuộc sống tàn phai:
Mau với chứ, vội vàng lên với chứ
Em em ơi, tình non sắp già rồi
(Giục giã)
Xuân Diệu yêu đời nhưng cũng rất bi quan tạo nên nét biện chứng trong thơ ông trước cách mạng:
Hiu hắt nhỉ bốn phương trời vò võ
Lạnh lùng chăng sầu một đỉnh chon von
(Hy Mã Lạp Sơn)
Lòng anh là một cơn mưa lũ
Bắt gặp lòng em là lá khoai
(Nước đổ lá khoai)
Đặc biệt lòng yêu đời ham sống của ông được thể hiện rõ trong bài thơ “Vội vàng”:
Mở đầu, Ông nói lên một khao khát kỳ lạ:
Tôi muốn tắt nắng đi
Tôi muốn buộc gió lại
Nắng, gió là là thuộc về thiên nhiên vĩnh hằng, vậy mà ông muốn níu giữ lại quy luật cuộc sống để “màu đừng nhạt, hương đừng bay đi”. Cần nói rõ màu sắc, hương thơm là tinh hoa của trời đất vũ trụ dâng tặng. Đó là vẻ đẹp của cuộc sống. Vậy, tác giả muốn lưu giữ vẻ đẹp ấy thành vĩnh cửu, đó là một ước muốn táo bạo.
Nghệ thuật điệp ngữ để liệt kê, để khái quát một bức tranh sinh động tươi mới về mùa xuân được cảm nhận từ sự phát triển, sự nảy lộc đâm chồi đầy sức sống của muôn loài.
Cuộc sống được vẽ ra như một thiên đàng ngay trên mặt đất mà mỗi sáng sớm “Thần Vui hằng gõ cửa”. Dư vị thời gian mùa xuân được cảm nhận “ngon như một cặp môi gần”. Tác giả tự hào hãnh diện say mê vì độ sung mãn của mùa xuân. Tác giả như đang nhập vào nhịp sống của mùa xuân để cảm nhận vẻ đẹp, sức sống và làm bừng thức dậy ánh sáng của sức sống ấy, truyền đến mọi người vẻ đẹp dâng trào của mùa xuân. Và, làm bừng sáng những vẻ đẹp của cuộc sống mà chưa mấy ai thấy.
Nhịp thơ đang hân hoan bỗng thay đổi đột ngột:
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa.
Dấu chấm giữa dòng tách thành hai câu thơ diễn tả hai nét tâm trạng: Vui và bi quan thất vọng. Tác giả đang háo hức mê say bỗng đột nhiên thay đổi vì tận thấy quy luật nghiệt ngã của thời gian:
Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Mùa xuân hay là sức xuân, tuổi trẻ, cuộc sống cá nhân của con người hữu hạn còn thời gian thì vô hạn. Chính mâu thuẫn này gây nên cảm giác lo sợ, hốt hoảng, niềm vui không trọn vẹn. Bằng cách lý giải, hình ảnh cái tôi tác giả hiện lên thật tội nghiệp, lo sợ, tiếc nuối và cảm nhận sâu xa sự chia li tiễn biệt về sự trôi đi của thời gian:
Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt…
Tác giả cảm giác hoá về thời gian, cảm nhận được cái dư vị đắng chát của sự tách vỡ, chia lìa trong vạn vật do thời gian thay đổi. Cuộc sống là dòng chảy của sự vận động vì vậy tác giả nhớ mùa xuân ngay cả khi mùa xuân đang tồn tại. Đỉnh cao của sự lo sợ tiếc nuối được thể hiện trong câu:
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời
Sự tiếc nuối vô cùng tham lam, ôm trọn cả không gian, trời đất vô thuỷ vô chung. Ông giục giã mình, giục giã người vội vàng tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống “Mau đi thôi” – vội vàng, cuống quýt. Xuân Diệu “vội vàng” vì ông hiểu và trân trọng giá trị của cuộc sống. Nó là phần tinh túy mà trời đất ban tặng, nhưng cuộc đời con người thì hữu hạn.
Yêu cuộc sống, Xuân Diệu nhìn cuộc sống dù ở góc độ nào cũng thấy nó thật đẹp và đáng quý trọng. Ông đã từng quan niệm buổi chiều thu là một bài thơ duyên mà ở đó con người và tạo vật, con người và con người gắn bó với nhau như một cặp vần. Đó phải là một cái nhìn về cuộc sống hết sức tài hoa và nhạy cảm, tinh tế, với một tầm văn hoá cao.
Xuân Diệu cảm nhận được cả những mối liên hệ mong manh nhưng vô cùng bền vững của cuộc sống ở chiều sâu tinh vi nhất:
Không gian như có dây tơ
Bước đi sẽ đứt động hờ sẽ tiêu
(Chiều)
Vì vậy ông cảm thấy luôn lo sợ cuộc sống trôi chảy, tàn phai. Ông chạy đua với thời gian với vạn vật. Ông hối hả vồ vập trước cuộc sống để sống tốt, sống đẹp hơn.
Trong cuộc sống thực tại, bên cạnh những con người ưu tú, những quan niệm sống tích cực, có lý tưởng đáng để cho chúng ta ngưỡng mộ, vẫn còn những quan niệm sống tâm thường. Chẳng hạn: Sống gấp, sống vội thiên về thụ hưởng vật chất, sống ươn hèn yếu đuối…, lạnh lùng, vô cảm, phi nhân tính…
Vậy, chúng ta càng thấy rõ giá trị đích thực của bài thơ “Vội vàng”. Bài thơ với hình ảnh táo bạo, khơi gợi cảm giác, bút pháp trữ tình tâm trạng và cảm xúc, tứ thơ hăm hở cuống quýt, cú pháp Tây phương, lối qua hàng hết sức thoải mái… xứng đáng được xem là tiếng gọi đàn, là lời tập hợp, là tiếng thức tỉnh con người: hãy sống và tận hưởng đầy đủ ý nghĩa của cuộc sống trong mọi chiều kích của thời gian, không gian một cách tuyệt đích, vĩnh viễn. Đó thật sự là một quan niệm nhân sinh mới mẻ hiện đại của nhà thơ “mới nhất trong phong trào Thơ mới”.
Mẫu 2
Xuân Diệu (1918 -1985) tên thật là Ngô Xuân Diệu, nhà thơ lãng mạn nổi tiếng của trào lưu Thơ mới trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Thi sĩ đã mang đến cho thơ ca tiếng Việt một vẻ đẹp thanh xuân bằng những sáng tạo táo bạo về hình ảnh, từ ngữ và nhịp điệu thơ. Xuân Diệu được nhà phê bình nghiên cứu văn học hoài Thanh nhận xét là mới nhất trong các nhà thơ mới. Có thể coi ba bài thơ Vội vàng, Đây mùa thu tới tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ của Xuân Diệu.
Bài thơ Vội vàng là tuyên ngôn về lẽ sống của Xuân Diệu thời trai trẻ. Niềm say mê thiên nhiên, say mê cuộc sống thể hiện tập trung nhất, đầy đủ nhất ở đây. Theo quan niệm của thi sĩ thì cuộc sống là tất cả những lạc thú vật chất và tinh thần cùng với những gì trần tục và thanh cao của nó. Đọc bài thơ này, người đọc cảm thấy như thi sĩ đang trải lòng ra mà viết, mà bày tỏ cho hết tình yêu chân thành đối với cuộc đời.
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Điệp từ Tôi muốn đặt ở vị trí đầu câu có tác dụng khẳng định và nhấn mạnh “cái tôi” của thi sĩ – một điều khá mới trong thơ ca đương thời. Cái ước muốn khác lạ chưa từng thấy đó chính là cách bày tỏ tình yêu bồng bột vô bờ của nhà thơ đối với con người và cuộc sống, với thế giới thắm sắc đượm hương đang trải rộng trước mắt. Dường như Xuân Diệu đã chỉ ra quy luật nghiệt ngã của Tạo hóa để rồi dần dần lí giải nguyên nhân lẽ sống vội vàng của mình.
Thiên nhiên được Xuân Diệu cảm nhận theo một cách rất riêng. Với nhà thơ thì đây là thiên đường trên mặt đất. Cái thiên đường đầy hương sắc đó hiện ra trong bài thơ như một khu vườn tình ái của vạn vật buổi đương thì vô cùng quyến rũ. Xuân Diệu cảm nhận, thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên và cũng là tình tự với thiên nhiên.
Đối với Xuân Diệu thì mỗi ngày là một niềm vui mới và cuộc đời là một chuỗi vui vô tận: Mỗi sáng sớm thần vui hằng gõ cửa. Thi sĩ muốn tắt nắng đi, muốn buộc gió lại để lưu giữ mãi mãi hương sắc của vườn xuân trần thế. Nhưng tiếc thay, vẻ đẹp ấy chỉ rực rỡ lúc xuân thì, mà xuân thì lại vô cùng ngắn ngủi. Thi sĩ đang hân hoan đón nhận vẻ đẹp tuyệt vời mà Tạo hóa ban phát cho muôn loài thì bỗng chốc niềm vui tan biến, thay vào đó là nỗi ngậm ngùi trước hiện thực phũ phàng:
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già.
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất;
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian.
Theo quan niệm của nhà thơ thì mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu là những thứ đẹp nhất, “là những phần ngon nhất của cuộc đời”. Thiên nhiên đẹp nhất lúc xuân sang, đời người đẹp nhất tuổi xuân thì, tình yêu đẹp nhất khi đi đôi với tuổi trẻ. Nhưng trớ trêu thay. Tạo hóa sáng tạo ra cái đẹp và cũng lạnh lùng hủy diệt cái đẹp. Mùa xuân và tuổi trẻ đều quá ngắn ngủi. Thời gian sẽ cuốn trôi hết thảy, cho nên con người phải mau chóng tận hưởng sắc màu cùng hương thơm mật ngọt của đời. Cho nên thi sĩ ngậm ngùi, tiếc nuối:
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.
Phải nói rằng cách thể hiện tâm trạng của Xuân Diệu ở bài thơ Vội vàng là rất mới, rất lạ, rất “Xuân Diệu”, xưa nay chưa từng có. Cách dùng từ ngữ và hình ảnh thật táo bạo; nhịp điệu thơ thay đổi linh hoạt, phù hợp với việc diễn đạt cảm xúc trong từng đoạn. Chỉ có như thế tác giả mới bày tỏ được mức độ nồng nàn, say đắm của tình yêu thương cuộc đời, yêu thương con người.
Bao trùm lên bài thơ Đây mùa thu tới là một nỗi buồn muôn thuở và cũng là nỗi buồn thời đại, thể hiện tâm trạng không phải chỉ của riêng thi sĩ mà là của cả thế hệ thanh niên trí thức thời đó trong tình cảnh nước nhà nô lệ. Nhịp điệu bài thơ chậm rãi, âm hưởng da diết và sâu lắng góp phần thể hiện thành công cảm xúc chủ đạo của bài thơ.
Sau khi bộc lộ cảm nhận của mình trước cảnh vật mùa thu từ gần đến xa, từ cái hiện đến cái ẩn, thi sĩ đi sâu vào thể hiện tâm tư con người, từ con người ngoại giới đến con người bên trong. Tất cả đều nhằm phản ánh nỗi buồn vừa man mác vừa thấm thía, vừa mênh mông vừa sâu lắng, trong cái thế chung của sự sống bên ngoài như nhạt phai, mất mát nhưng bên trong lại như chất chứa một sự vươn tới, một ước mong mơ hồ mà tha thiết.
Xuân Diệu nhìn cảnh vật bằng đôi mắt u sầu nên thấy đâu đâu cũng nhuốm vẻ buồn thương:
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng:
Đây mùa thu tới – mùa thu tới,
Với áo mơ phai dệt lá vàng.
Xưa nay, các nhà thơ tả mùa thu đến thường sử dụng những hình ảnh ước lệ như lá ngô đồng rụng, sắc đỏ lá phong, nàn hương cốm mới, những thoáng heo may… Xuân Diệu cũng lặp lại, không có gì mới. Mới chăng chính là ở cách diễn đạt. Thi sĩ tư duy bằng liên tưởng, ấn tượng, cảm giác, âm thanh và nhịp điệu. Biến cái trừu tượng thành cụ thể, nối dài cái cụ thể bằng cái trừu tượng, nội tâm hóa ngoại giới và ngoại giới hóa nội tâm. Thi pháp lãng mạn độc đáo ấy đã làm tươi mới những thi liệu tưởng như đã cũ.
Mùa thu đã mang hồn người và tất cả những gì của nó đều sống kiếp người thu. Mùa thu và tâm hồn tác giả có chỗ nào trùng hợp, gần gũi hay không thì chưa rõ, nhưng dùng hình ảnh và cách nói như trên về mùa thu là rất mới rất lạ. Trong cảm nhận của thi sĩ, thiên nhiên cũng giống như một giai nhân. Mùa xuân là mùa đẹp nhất. Qua hạ vào thu, thiên nhiên đã nhuốm vẻ tàn phai nhưng vẫn đẹp, vẫn quyến rũ hồn người.
Hơn một loài hoa đã rụng cành,
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh.
Nếu sắc lá xanh là của mùa xuân, mùa hạ thì sắc lá vàng, lá đỏ là của mùa thu. Mùa thu tới, màu đỏ cứ lấn dần màu xanh. Màu đỏ lan tới đâu, màu xanh mỏng dần tới đó. Sắc đỏ rũa màu xanh là vậy. Dường như thi sĩ cảm nhận được từng bước đi âm thầm của mùa thu trên sự đổi thay sắc màu của lá.
Những luồng run rẩy rung rinh lá…
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.
Ở đầu đoạn thơ là hình ảnh hoa rụng, lá phai; đến cuối đoạn là hình ảnh các nhánh cây trơ trụi, khẳng khiu in trên nền trời thu. Câu thơ bảy chữ thì có tới sáu chữ gợi sự tàn tạ: nhánh, khô gầy, xương, mỏng manh. Xuân Diệu đã thể hiện bút lực tài hoa của mình trong việc sử dụng hình ảnh và ngôn ngữ đầy sáng tạo. Xuân Diệu thấu hiểu căn nguyên nỗi buồn của mình. Hình như nó đến từ trời đất rồi thấm vào hồn người:
Mây vẩn từng không chim bay đi,
Khí trời u uất hận chia li.
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói,
Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì.
Như vậy là mùa thu bắt đầu bằng hình ảnh Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang và kết thúc bằng hình ảnh ít nhiều thiếu nữ buồn không nói. Cái dáng vẻ lặng im tựa cửa tưởng như rất tĩnh ấy lại chứa chất những xôn xao thấm thía nhất của hồn thu.
Hai bài thơ hay và đẹp tả cảnh thiên nhiên mùa xuân, mùa thu và thể hiện cảm xúc nồng nàn, tha thiết của thi sĩ trước thiên nhiên và cuộc đời. Đúng như lời tự bạch của Xuân Diệu: Sự sống chẳng bao giờ chán nản. Cuộc sống với những vui buồn muôn thuở cùng với thiên nhiên muôn hình muôn vẻ chính là nguồn thi hứng bất tận của “ông hoàng thơ tình yêu” – Xuân Diệu.
Mẫu 3
Trong văn đàn Việt Nam, khi nhắc đến Xuân Diệu người ta thường nghĩ đến một hồn thơ tự do, bay bổng với những điều kỳ dị, ngỡ ngàng, mới mẻ còn khi nhắc đến nhà thơ Tố Hữu, người đọc lại nghĩ ngay đến những vần thơ chính trị, thời cuộc nhưng đậm chất dân tộc, dễ đi vào lòng người. Khi nói về tư tưởng hòa nhập và khát vọng sống, mỗi nhà thơ lại có những quan điểm và cách thể hiện riêng. Có thể tìm hiểu điều đó qua hai đoạn thơ trong hai bài Vội vàng của Xuân Diệu và Từ ấy của Tố Hữu.
Ở Vội vàng, Xuân Diệu bộc lộ một triết lí sống vội vã, cháy bỏng, cuồng nhiệt với thanh xuân với tuổi trẻ. Nhà thơ cho rằng tuổi trẻ là thời gian tươi đẹp nhất của cuộc đời cũng giống như mùa xuân đến trong đất trời, vạn vật rực rỡ, bung nở.
Thế nhưng mùa xuân của đất trời thì vẫn tuần hoàn, xuân qua xuân lại lại còn mùa xuân của đời người thì chỉ có một lần, nếu con người không biết sống hết mình, sống tận hưởng tuổi xuân thì chúng ta đang lãng phí cuộc đời của mình.
Hiểu được thực tại ấy, nhà thơ thấy trân quý, khao khát kéo dài thanh xuân của mình, muốn được sống hết mình, được cống hiến, được tận hưởng để cuộc sống trở nên ý nghĩa hơn. Ông muốn được sống đúng với bản năng, với khát vọng của mình, được hòa nhập với thiên nhiên đất trời, được thả mình trong đó để tận hưởng và lưu giữ vẻ đẹp của xuân hồng. Nhà thơ đã cảm nhận thiên nhiên cuộc sống bằng vẻ đẹp tươi xanh đầy sức sống nhất của nó, từ đó thúc giục con người hãy sống vội vàng, ý nghĩa hơn với thanh xuân với cuộc đời.
Còn ở bài thơ Từ ấy, đây là tác phẩm được tác giả viết khi ông vinh dự và tự hào được đứng trong hàng ngũ của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Nhà thơ bày tỏ niềm tự hào ấy bằng những ngôn từ và cảm xúc rung động đến bổi hổi và rạo rực. Đồng thời cũng từ đây, nhà thơ ý thức được trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với nhân dân với đất nước khi đã là một người đảng viên.
Nhà thơ buộc mình phải mở lòng, phải hòa nhập với tất cả mọi người, không xa rời quần chúng nhân dân mà luôn gần dân, hiểu dân, gắn bó với dân, giúp dân nói lên nguyện vọng của mình. Người đảng viên là người đại diện cho quyền lợi và tiếng nói của những con người cùng khổ, do đó họ không thể để mình xa cách cao cao tại vị mà phải đặt mình ở trong dân.
Nhà thơ tự nhận mình là con, là em, là anh của vạn người, vạn nhà để nhấn mạnh nghĩa vụ và trách nhiệm ấy của mình. Từ nay, cuộc sống của ông hoàn toàn gắn bó chặt chẽ với nhân dân, ông phải trở thành một người tiên phong, dẫn bước, luôn kề cận, sát cánh cùng nhân dân trong con đường đấu tranh cách mạng. Đó là một tư tưởng sống cống hiến, sống hòa nhập rất phù hợp với hoàn cảnh và thời đại của nhà thơ.
Như vậy có thể thấy tư tưởng chủ đạo trong khổ thơ của Xuân Diệu là cách sống hòa mình, hòa nhập với thiên nhiên đất trời, tận hưởng tuổi trẻ sống hết mình, sống ý nghĩa đối với thanh xuân ngắn ngủi. Còn đối với Tố Hữu, đó là tư tưởng sống hòa nhập với con người, gần gũi, gắn bó mật thiết với con người để con người cùng nhau tiến lên.
Mẫu 4
Nói về các nhà Thơ Mới, Hoài Thanh đã từng nhận xét: “Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lúc một hồn thơ rộng lớn như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên.. và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu”.
Nếu Xuân Diệu gieo lên vần thơ của mình sự khắc khoải về thời gian thì Huy Cận lại đem đến một không gian vô cùng rộng lớn để tạo nên những nét riêng trong thơ của mình. Cũng như Đỗ Lai Thúy trong con mắt thơ đã từng nhận định:
“Xuân Diệu, nỗi ám ảnh thời gian.”
“Huy Cận, sự khắc khoải không gian.”
Có một nhà thơ luôn trăn trở, khắc khoải về thời gian. Đúng không ai hết chính là Xuân Diệu. Được biết đến là một trong số những nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới, tức là có ý thức sâu sắc khẳng định cái tôi cá nhân của mình bằng nghệ thuật thơ ca, nhưng khác với nhiều nhà thơ khác trong phong trào Thơ mới, Xuân Diệu không đem cái tôi của mình đối lập với đời và tìm cách thoát li cuộc sống này; trái lại, ông muốn khẳng định nó trong quan hệ gắn bó với đời, hiểu theo nghĩa trần thế nhất: Là con người, là trời đất, là hoa lá cỏ cây ở quanh ta đây.
Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết. Dù ở phương diện nào, Xuân Diệu cũng có đóng góp rất to lớn với sự nghiệp văn học Việt Nam.
“Vội vàng” được sáng tác trước cách mạng vào năm 1938 in trong tập “Thơ thơ” – thi phẩm đầu tay và ngay lập tức vinh danh Xuân Diệu như một đại diện tiêu biểu nhất của phong trào Thơ Mới.
Không chỉ thời gian vô tận mà không gian cũng mênh mông, Huy Cận cũng được biết đến với vai trò là một nhà thơ lớn của nền thơ ca cách mạng hiện đại Việt Nam và đại biểu xuất sắc của phong trào Thơ mới. Với tình yêu thiên nhiên, đất nước thầm kín, sâu sắc cùng với sự say mê sống, sáng tạo, Huy Cận đã sáng tác rất nhiều bài thơ đặc sắc, hàm súc giàu suy tưởng triết lí.
Sự nghiệp sáng tác của nhà thơ chia làm hai giai đoạn trước và sau cách mạng tháng tám ở mỗi giai đoạn thì phong cách cũng khác nhau khi thì quạnh hiu, da diết khi thì tươi vui, mới mẻ.
“Tràng Giang” được viết vào mùa thu năm 1939, được rút ra trong tập thơ “Lửa thiêng” năm 1940. Bài thơ bộc lộ nỗi sầu của một cái tôi cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, bạt ngàn trong đó thấm đượm tình người, tình đời, lòng yêu nước thầm kín mà thiết tha. Nỗi buồn ấy xuất phát từ một buổi chiều thu, khi ông đắm mình ngắm nhìn dòng sông Hồng trên bến Chèm. Khung cảnh bốn bề sông nước mênh mông, vắng lặng đã khơi gợi ở hồn ông tứ thơ “Tràng Giang”
Quan niệm về thời gian trong nghệ thuật đặc biệt là trong thơ ca đã trở nên rất quen thuộc tiêu biểu là Xuân Diệu, Đỗ Lai Thúy đã từng nhận định: “Xuân Diệu, nỗi ám ảnh thời gian” đã cho thấy được quan niệm của thi sĩ về thời gian là tuyến tính, là một đi không trở lại, ông thường lấy tuổi trẻ để làm thước đo cho thời gian để từ ấy những tiếc nuối lo lắng về thời trước cứ nhen lên không sao dập tắt được.
Nguyên nhân nỗi ám ảnh thời gian về thời gian của Xuân Diệu đó là ông đã nhận thức được rõ nét những đớn đau, khắc nghiệt giá trị của thời gian, của thời khắc tuổi trẻ. Chính những nỗi niềm ấy đã ám ảnh Xuân Diệu trong từng tác phẩm của mình.
So sánh với sự vô hạn của thời gian là sự vô tận của không gian. Không gian nghệ thuật thơ Huy Cận là cả một thế giới bên trong sâu lắng, bàng bạc mông mênh cảm xúc. Lấy cảm hứng từ vũ trụ và thiên nhiên, thơ Huy Cận là cõi bao la trong nỗi buồn mênh mang, là sự cảm nhận thân phận bé nhỏ cô độc của con người trước vũ trụ, là cái hữu hạn đời người trước vô tận của đất trời..
Qua quan niệm về thời gian, Xuân Diệu đã làm nổi bật về cái tôi cá nhân của chính mình cùng suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ và đầy triết lí. Giọng thơ lúc thì nhẹ nhàng, tha thiết, lúc thì dồn dập như thôi thúc, tạo âm điệu càng tạo nên sức hút, cuốn độc giả vào luồng những suy nghĩ sâu xa về cuộc đời, con người và tuổi trẻ.
Có thể thấy ở nhà thơ, dù đắm say trong giấc mộng đẹp thời tươi của tuổi trẻ nhưng vẫn có cái nhìn thực tế về thời gian, về những quy luật nhân sinh trong đời sống. Để rồi từ yêu đời, tha thiết, rạo rực lại cảm thấy băn khoăn. Nhưng như thế lại càng trỗi dậy lời giục giã, khát vọng ham sống đến cuồng nhiệt, vồ vập ở những vần thơ sau. Vội vàng là bài thơ trữ tình thấm đẫm những giá trị nhân văn qua lăng kính mới mẻ của Xuân Diệu.
Trong khi bạn thân của Huy Cận là Xuân Diệu chịu nỗi dằn vặt về thời gian thì với chính Huy Cận lại bị ám ảnh bởi không gian. Mở đầu cho nỗi ám ảnh không gian ấy là một phong cảnh thiên nhiên rộng lớn, bao la, mênh mang, heo hút của sông Hồng:
“Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp”
Có lẽ vì lòng người buồn mà tâm cảnh cũng nhuốm lên ngoại cảnh. Nhìn đâu thi nhân cũng chỉ thấy cảnh vật rời rạc chia ly u sầu cứ thế mà hiện lên trong từng câu chữ. Hình ảnh cành củi khô trôi nổi phù du trên sóng nước Tràng giang chính là hình ảnh ẩn dụ để biểu tượng cho kiếp người như thi nhân đang nổi trôi bơ vơ vô định giữa dòng chảy của cuộc đời giữa cuồng phong của một đất nước mất chủ quyền?
Câu thơ cuối cùng khép lại “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Nhà thơ đã mượn ý thơ Thôi Hiệu để nói lên nỗi lòng của mình. Cách đó mười thế kỷ Thôi Hiệu nhìn khói sóng trên sông mà lòng nhớ quê hương da diết khôn nguôi:
“Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”
Huy Cận không nhìn thấy “khói” nhưng vẫn nhớ nhà da diết. Đó chính là tâm trạng và lòng yêu quê hương sâu kín của nhà thơ. Từ đó bài thơ mở ra một tình yêu lớn lao hơn mỗi miền quê mỗi cảnh vật. Tình yêu đó mang nỗi buồn sông núi nỗi buồn về đất nước. Phải chăng đó chính là sự đồng điệu của hai tâm hồn thi sĩ cách nhau mười thế kỷ?
“Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo. Vì vậy đòi hỏi người sáng tạo phải có phong cách nổi bật, tức là có cái gì rất riêng mới lạ trong phong cách của mình.” Để làm nên một tác phẩm mang chất riêng của mình đòi hỏi người nghệ sĩ phải có sự sáng tạo.
Nếu ở Xuân Diệu thể hiện quan niệm nhân sinh, quan niệm thẩm mĩ mới mẻ, một cái tôi khao khát giao cảm, tận hưởng với cuộc đời. Thì đến Huy Cận ông đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên bao la, hùng vĩ để từ đó nói lên được nỗi lòng của thi nhân. Đó là nỗi buồn cá nhân, nỗi buồn thế hệ, lòng yêu nước thầm kín mà thiết tha.
Cùng với đó hai thi sĩ đã vận dụng hàng loạt những biện pháp nghệ thuật để thể hiện tính sáng tạo cho bài làm của mình như trong “Vội Vàng” Xuân Diệu đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa mạch cảm xúc và mạch luân lí, giọng điệu say mê, sôi nổi, những sáng tạo độc đáo về ngôn từ và hình ảnh thơ. Còn ở “Tràng Giang” Huy Cận đã sử dụng nghệ thuật lấy động tả tĩnh kết hợp các biện pháp tu từ, thủ pháp: Đối, điệp từ, láy.. Mang vẻ đẹp vừa cổ điển, vừa hiện đại.
Nếu như ở “Vội Vàng” đã mang tấm lòng trần gian đến một tình yêu căng tràn nhựa sống, say đắm cảnh trời, say đắm thiên nhiên, sống vội vàng, cuống quýt để không phí hoài những ngày xanh, tuổi trẻ. Thì đến “Tràng Giang” thì khác với một âm hưởng nhẹ nhàng, lạnh lẽo. Một nỗi niềm chan chứa những ưu tư của tác giả về tình yêu quê hương, đất nước, con người của chính mình ông. Một cảm xúc rất chân thật trước một bầu trời thiên nhiên mênh mông, bao la đến bất tận.
Cả hai tư tưởng này đều rất đúng đắn, nó giáo dục khuyến khích con người hãy biết mở lòng, biết sống hết mình. Dù là có sự khác nhau do bối cảnh và ý nghĩa chủ đề nhưng đây đều là hai tác phẩm xuất sắc nói lên những tư tưởng sáng suốt, có ý nghĩa trong cả tiến trình thời gian và là bài học sâu sắc cho cả thế hệ ngày nay.
Mẫu 1
Mùa xuân, giữa bản hòa nhạc của thiên nhiên, được coi là khúc khởi đầu của mọi sự sống, là khoảnh khắc mà thiên nhiên tỏa sáng với vô vàn hoa, bướm và tình yêu. Đó không chỉ là một thời điểm trong năm, mà là một bức tranh huyền bí mà con người hưởng thụ với niềm vui và sự hân hoan. Mỗi người cảm nhận mùa xuân theo góc độ riêng, có thể là vẻ đẹp tinh khôi của nhành đào nở hoa, cũng có thể là nét phớt hồng trên khuôn mặt của một thiếu nữ. Với tâm hồn sáng tạo và nhìn nhận độc đáo, Xuân Diệu lại cảm nhận mùa xuân bằng cả ánh mắt và trái tim của mình. Qua bài thơ “Vội vàng,” ông mang đến cho độc giả một cái nhìn đặc biệt về vẻ đẹp mùa xuân, không chỉ là hình ảnh những đám hoa tươi thắm, mà còn là những niềm vui, hồn nhiên và đôi khi là cuộc sống đầy cuống quýt của con người giữa khoảnh khắc tuyệt vời ấy. Xuân Diệu, với bút pháp tinh tế, tạo nên một bức tranh hồn nhiên và phức tạp, khắc họa đầy đủ vẻ đẹp và tâm trạng đa dạng của mùa xuân.
Mẫu 2
Mùa xuân, trong cái nhìn của nhiều người, là khoảnh khắc tươi mới, là thời điểm mà tự nhiên bừng nở với sự sống, hứng khởi và ngập tràn màu sắc. Đó là thời kỳ đặc biệt, đánh thức niềm vui và sự háo hức của con người. Mỗi cái nhìn về mùa xuân là một trải nghiệm khác nhau, có thể là vẻ đẹp của những bông hoa khoe sắc, có thể là hình ảnh bướm bay trong ánh nắng ấm áp, hay có thể là tình yêu bừng cháy như cơn gió mùa xuân. Đối với Xuân Diệu, mùa xuân không chỉ là một sự kiện ngoại vi, mà là một trạng thái tinh thần, là sự sống động của trái tim và ánh nhìn tinh tế của tâm hồn nghệ sĩ. Trong bài thơ “Vội Vàng,” ông vẽ lên bức tranh mùa xuân với những nét đẹp tinh khôi và đầy niềm vui, nhưng đồng thời, ông cũng diễn đạt sự cuống quýt, hối hả của con người trước vẻ đẹp và tình yêu trong mùa xuân.
Mẫu 3
Thả mình lơ đãng vào cơn gió nhẹ của buổi sớm mai,nhắm mắt và tận hưởng những dư vị ngọt ngào còn đọng lại của những vần thơ Xuân Diệu cất lên,ca lên khúc ca tình say đắm của “Vội vàng” ,ta thấy lòng mình sao rạo rực quá. Có phải chăng những xúc cảm của thơ Xuân Diệu đã uốn mình chạm tới con tim? Có lẽ chăng sự khao khát mãnh liệt của một cơ thể tràn trề sức sống đã thức tỉnh niềm say mê trong lồng ngực trước những cảnh sắc tuyệt mỹ của thiên nhiên đất trời.Quả thật,thơ Xuân Diệu chính là nguồn sống dạt dào nhất trên thế gian nhiều sắc màu ấy.
Mẫu 4
Những giọt mưa lạnh đầu mùa rơi nhẹ nhàng, như những nụ hôn êm dịu của tình yêu, hương thơm ngọt ngào từ những trái mâm xôi ủ kín dưới tấm màn mưa trắng như là sự thức tỉnh của thiên nhiên sau giấc ngủ mùa đông. Trong khoảnh khắc ấy, chàng thi sĩ trẻ không chỉ đắm chìm vào mùa xuân, mà còn trải lòng trong hương hoa của tình yêu, cuộn tròn trong thứ cảm giác say đắm đến lạ thường. Ánh mắt trào dâng đầy hương sắc, nơi đó, Xuân Diệu đã nâng niu mùa xuân như một người giai nhân kiều diễm, thanh tú, với đôi môi đỏ mọng ái tình. Trong tâm hồn của ông, mùa xuân không chỉ là thời kỳ khắc phục, mà còn là một nguồn cảm hứng vô tận. Thi sĩ đã hóa thân vào thiên nhiên, hòa mình vào tinh túy của thế gian, và đưa vào bài thơ “Vội vàng” tất cả những hương vị tinh tế nhất của cuộc sống. Nhưng hơn cả, ông đã làm sống dậy một tâm hồn khát khao đến mãnh liệt, hòa mình vào vẻ đẹp trọn vẹn và tình yêu ngập tràn của mùa xuân.
Mẫu 5
“Hồn thơ Xuân Diệu là nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết”. Những lời bình phẩm sâu sắc ấy của Hoài Thanh dành cho Xuân Diệu có lẽ đã đủ nói về một hồn thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới” – một hồn thơ lúc nào cũng “thiết tha, rạo rực, băn khoăn”. “Vội vàng” là một thi phẩm gói trọn hết thảy những cung bậc cảm xúc ấy, cũng có thể gọi đó như một bài thơ “rất Xuân Diệu”.
Trên đây là tổng hợp các mẫu mở bài Vội vàng xuất sắc nhất mà chúng tôi đã chọn lọc được, hy vọng những mẫu văn này sẽ giúp cho các bạn có được những bài văn hay. Chúc các bạn có những bài văn thật tốt và đạt được điểm cao tuyệt đối trong các kì thi.
Đông Đông là một tác giả nổi bật trên website Yêu Văn Học, nổi tiếng với những bài viết sâu sắc về văn học, phân tích tác phẩm và giới thiệu tác giả. Đam mê văn chương, ông cung cấp cái nhìn tinh tế và hấp dẫn về thế giới văn học.
Bình Luận