Không biết vì lẽ gì hai câu thơ đó cứ theo tôi mãi trong suốt năm tháng xa nhà của mình. Mỗi lần nhớ về bà, nhớ về nhà tôi lại nhớ đến nó – nhớ đến “Bếp lửa” của Bằng Việt.
Bài thơ được sáng tác vào năm 1963 khi Bằng Việt đang đi du học ở nước ngoài. Đây là một trong những sáng tác đầu tay của ông nhưng ngay từ khi vừa mới ra đời cho đến nay “Bếp lửa” vẫn luôn có một vị trí riêng trong nền thi ca Việt Nam. Bài thơ được in trong tập “Hương cây – Bếp lửa” vào năm 1968. Đây cũng được xem như là một trong những thi phẩm hay nhất về tình bà cháu trong nền thơ ca hiện đại Việt Nam.
Bố cục bài thơ đi theo mạch cảm xúc từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỷ niệm đến những suy ngẫm sâu xa. Bài thơ được mở đầu bằng hình ảnh bếp lửa, gợi về những hồi tưởng trong quá khứ để từ đó người cháu trưởng thành hơn, biết suy ngẫm hơn, thấu hiểu bà hơn để rồi gửi nỗi nhớ mong được gặp bà trong tình cảnh xa cách.
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”
Ba tiếng “một bếp lửa” được lặp đi lặp lại ngay ở đầu bài thơ bởi lẽ hình ảnh này đã quá quen thuộc với làng quê Việt Nam, hơn nữa những kỷ niệm về bà cũng gắn liền với nó. Nhắc đến bếp lửa là nhắc đến bà, nhắc đến bếp lửa sẽ gợi cho tác giả những kỷ niệm về một người bà tần tảo sớm hôm bên căn bếp nhỏ. Bởi vậy, bếp lửa có thể coi như là khơi nguồn cho mạch cảm xúc của nhà thơ về bà của mình.
Bốn khổ thơ tiếp theo lần lượt là những ký ức về năm tháng cháu được sống bên bà. Kỷ niệm về bà cứ thế theo cháu từng ngày, gắn liền với quá trình trưởng thành của cháu. Những ký ức về bà lớn dần, lớn dần lan tỏa sang cả nỗi nhớ làng quê, nhớ đất nước:
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lũi
Chiến tranh đã gây ra bao mất mát, đau thương nhưng không thể nào xóa nhòa được tình làng, nghĩa xóm. Trong những tháng ngày xa quê những ký ức về những người làng xóm đáng kính đã cùng hai bà cháu đi qua hết những năm tháng chiến tranh đang lần lượt hiện về trong tâm trí của cháu.
Lời dặn dò “Mày viết thư chớ kể này kể nọ/ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!” cho thấy hình ảnh của một người phụ nữ tần tảo, giàu tình thương. Dẫu trong hoàn cảnh nào bà vẫn kiên cường để làm điểm tựa tinh thần cho người cháu, làm hậu phương vững chắc cho người con chiến đấu ngoài chiến trường.
Từ những hình ảnh bếp lửa cụ thể, gắn liền với cuộc sống, lời thơ chuyển sang cái trừu tượng của “ngọn lửa” với những tầng nghĩa mới:
“Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”.
Ngọn lửa ở đây là ngọn lửa của tình yêu thương, của sức sống mãnh liệt, của tình yêu thương thầm lặng, của niềm tin vào tương lai đất nước. Sau bao nhiêu vất vả, khổ cực bà vừa là người giữ lửa vừa là người truyền lửa cho cháu. Bà “nhóm niềm yêu thương” trong cháu, truyền cho cháu tình yêu thương, cho cháu hiểu thế nào là tình làng nghĩa xóm, khơi dậy trong cháu biết bao điều tốt đẹp.
Nhà văn Thạch Lam cũng đã có một tác phẩm làm lay động lòng người với tình cảm bà cháu trong “Dưới bóng hoàng lan”. Truyện ngắn “Dưới bóng hoàng lan” viết về nhân vật Thanh thông qua một lần trở về quê hương, thăm bà, gặp lại những người anh luôn yêu thương, tôn trọng.
Truyện ngắn còn là một khung cảnh đơn sơ, giản dị nhưng đầy chất thơ, thấm đượm hương vị của tình người. Thanh vốn mồ côi cha mẹ từ nhỏ, người thân yêu duy nhất của Thanh đó là bà, tuổi thơ của Thanh là một cuộc sống vất vả nhưng luôn tràn đầy hơi ấm, tình yêu, sự chở che của người bà. Do đó, với chàng thanh niên ấy mà nói, người bà vừa là người cha, người mẹ, cũng là người thân duy nhất của anh.
Người bà quan tâm từng việc nhỏ nhặt nhất của người cháu. Đối với Thanh khi ở bên bà lúc nào cũng có cảm giác được che chở, được quan tâm thì đối với bà, người cháu dù có lớn khôn đến đâu thì với bà lúc nào cũng là một đứa nhỏ cần được yêu thương, chăm sóc: “ …Ở đấy, bà chàng lúc nào cũng sẵn sàng chờ đợi để mến yêu chàng”. Tình yêu thương của bà giản dị nhưng thật thiêng liêng, cao quý biết bao!
Khổ thơ cuối của “Bếp lửa” là lời tâm sự, bộc bạch của đứa cháu đã lớn khôn. Dù khoảng cách có xa xôi bao nhiêu, dù cho “khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả” “Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở/ – Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?…”. Cháu luôn nhớ về bà bằng tất cả tình yêu thương, sự biết ơn và nỗi nhớ của mình.
Không phải ngẫu nhiên mà ngay từ khi vừa mới ra đời cho đến tận hôm nay “Bếp lửa” vẫn luôn có chỗ đứng riêng của nó. Bằng những hình ảnh chân thực cùng tất cả tình cảm chân thành Bằng Việt đã thật sự chạm đến trái tim người đọc qua từng câu, từng chữ của mình.
Mẫu 2
Người nghệ sĩ đến với cuộc sống từ nhiều nẻo đường, trên muôn vàn cung bậc phong phú nhưng tiêu điểm mà các văn nghệ sĩ hướng đến vẫn là con người. Lấy hiện thực cuộc sống làm cảm hứng sáng tạo, soi rọi hiện thực qua lăng kính tâm hồn của mình, người nghệ sĩ kí thác vào tác phẩm một phần cuộc sống của chính mình. Qua các tác phẩm “Ánh trăng” (Nguyễn Duy), “Làng” (Kim Lân), “Bếp lửa” (Bằng Việt) và “Những ngôi sao xa xôi” (Lê Minh Khuê), ta thấy trong đó một nỗi nhớ âm thầm nhưng dai dẳng, có sức ám ảnh lớn.
“Hành trình của nỗi nhớ” là một hành trình có khởi điểm (bắt đầu từ những điều giản dị, thân quen), có quá trình (lúc đầy lúc vơi, lúc trào dâng mạnh mẽ, lúc lặng lẽ dịu êm,…), có giá trị, ý nghĩa sâu sắc (khiến con người nhận ra bao điều; khiến con người yêu thêm, hiểu thêm những giá trị cuộc sống để thấy đời mình ý nghĩa hơn,…). Đây là một nhan đề mang nhiều sức gợi, tạo được sự đồng cảm ở người đọc.
Văn học phản ánh hiện thực mà con người là trung tâm của hiện thực nên con người sẽ là đối tượng hướng tới của văn học. Khi viết về con người, văn học không dừng lại ở việc miêu tả vẻ bề ngoài mà chú ý đến đời sống tình cảm với nhiều biểu hiện phong phú, sinh động. Một trong những tình cảm sâu sắc, mang nhiều ý nghĩa chính là nỗi nhớ.
Văn học chân chính phải có khả năng lay động tâm hồn và tác động đến nhận thức của con người. Chính vì vậy, nỗi nhớ được nhắc đến trong văn học phải có chiều sâu, có quá trình, có giá trị nhân sinh tích cực, đem đến nhiều sự vỡ lẽ về nhận thức cho người đọc.
Nỗi nhớ trong tác phẩm không phải là một khoảnh khắc, một phút bất chợt mà là cả quá trình với nhiều diễn tiến, kết quả của quá trình ấy là những tác động tích cực đến tâm hồn con người.
Trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt, người cháu đã nhớ về những tháng ngày vất vả, gian khổ, gắn bó cùng bà bên bếp lửa tuổi thơ. Nỗi nhớ ấy đã thành kỉ niệm ấm lòng, thành niềm tin thiêng liêng, kì diệu nâng bước cháu trên suốt hành trình dài rộng của cuộc đời.
Trong bài thơ Ánh trăng, Nguyễn Duy đã tái hiện những kỉ niệm sâu sắc với vầng trăng từ hồi nhỏ cho đến hồi chiến tranh ở rừng. Cũng có lúc vầng trăng bị nhân vật trữ tình lãng quên nhưng rồi vầng trăng ấy lại trở về vẹn nguyên trong nỗi nhớ khiến con người thấm thía cảm xúc ân tình với quá khứ gian lao và biết rút ra bài học về lẽ sống chung thủy cho mình.
Hành trình của nỗi nhớ cũng chính là hành trình nhân vật tự nhận thức, hành trình người đọc xúc động, suy ngẫm và khám phá ra nhiều giá trị trong đời sống. Đây cũng chính là điều làm nên chiều sâu nội dung tư tưởng cho tác phẩm.
Muốn tái hiện lại hành trình của nỗi nhớ, nhà văn cần có vốn sống phong phú, tình cảm dạt dào và tài năng nghệ thuật. Muốn cảm nhận được hành trình của nỗi nhớ trong tác phẩm, người đọc phải có trình độ thưởng thức văn học và trái tim biết rung cảm.
Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư tưởng đã được run lên ở các cung bậc và tình cảm và tình cảm chứ không phải là tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy. Có thể nói, tình cảm của người viết là khâu đầu tiên và là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng một tác phẩm như thế nào. Niềm vui của người nghệ sĩ chân chính là niềm vui của người dẫn đường đến xứ sở cái đẹp. Và đó cũng là sợi chỉ đỏ kết nối giữa người sáng tạo và người đọc một cách bền vững.
Mẫu 3
Bếp Lửa của Bằng Việt khiến cho nhiều người đọc đều cảm thấy ngậm ngùi và cảm động, nhớ lại những hình ảnh đẹp mà tác giả gợi mở. Trần Quang Quý đã từng nhận xét rằng: “Chất thơ hào hoa mà đằm thắm, tinh xảo mà hồn nhiên, hào sảng mà tươi tắn, tươi mới mà quyến rũ, ấm cúng và trí tuệ” chính là nguồn nhiệt năng tỏa sáng từ “Bếp lửa” đến với những trang thơ ngày này của Bằng Việt.”
Bếp lửa là hình ảnh thân thuộc của rất nhiều gia đình Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh hình ảnh của cuộc sống gia đình, nhà thơ cũng chứa đựng những tâm tư, tình cảm và hoài niệm sâu sắc của mình. Bài thơ thể hiện nỗi nhớ nhà, nỗi nhớ quê hương, khi nhà thơ ở đất khách quê người.
Bài thơ cho ta thấy được nỗi nhớ về ngọn lửa trong bếp, là nơi gắn bó của người phụ nữ, là nơi đun nấu thức ăn, đem lại niềm vui, hạnh phúc cho gia đình. Nổi bật trên đó có lẽ là hình ảnh người bà tần tảo nhưng lại mạnh mẽ, một tay nuôi lớn cháu trai trưởng thành.
Qua đây, ta cũng có thể thấy được một người bà vô cùng quen thuộc với trong thơ của Xuân Quỳnh. Người bà loay hoay bận rộng với đàn gà, chắt chiu từng quả trứng trong bài thơ Tiếng gà trưa. Có thể nói, dù bao khó khăn chồng chất, nhưng với cả hai vị tác giả đại tài, hình ảnh quê hương và người bà gắn với những kí ức tuổi thơ tốt đẹp mà họ muốn quay về.
Bài thơ cũng gợi nhắc lại tình cảm quê hương, nơi đất khách quê người, nơi mà nhà thơ mang trong lòng niềm nhớ, tình thương mãi không phai. Nếu bạn để ý sâu hơn, có thể thấy rằng trong bài thơ, còn tình cảm với quê hương đất nước được tác giả nhắc rất nhiều. Đó là hình ảnh căm ghét bọn quân thù, hình ảnh phương xa nhưng vẫn nhớ về quê nhà.
Tình yêu đất nước và quê hương đó có thể ta sẽ thấy trong nhiều tác phẩm khác nhau, đặc biệt nhất chính là Quê Hương của Nguyễn Trung Quân. Từ những hình ảnh vô cùng bình dị, tác giả khẳng định tầm quan trọng của cội nguồn cũng như tình yêu quê hương, đất nước.
“Bếp Lửa” là một bài thơ đẹp, gợi lên nhiều cảm xúc và tư tưởng sâu sắc về tình cảm gia đình, quê hương và giá trị truyền thống. Thông qua đó, ta cũng dễ thấy được những hình ảnh và tình cảm thường được xuất hiện trong các tác phẩm xuất sắc của Việt Nam.
Mẫu 4
“Bếp Lửa” là một bài thơ của nhà thơ Bằng Việt, một nhà thơ nổi tiếng của nền văn học Việt Nam. Bài thơ này được viết trong giai đoạn ẩn dụ và tượng trưng đặc trưng của thơ ca hiện đại, với một phong cách sắc sảo, đậm chất hình ảnh và gợi cảm xúc. Từ những hình ảnh và cảm xúc tác giả muốn thể hiện, ta cũng có thể nhìn được một số bài thơ quen thuộc khác.
“Bếp Lửa” là một bài thơ về gia đình, về một căn nhà với ngọn lửa trong bếp, đại diện cho nơi ấm cúng và an toàn của gia đình. Nhà thơ đã dùng các hình ảnh sinh động để miêu tả cảnh nhà bếp với lửa bập bùng ấm cúng và hài hòa. Cùng với hình ảnh bếp lửa ấy, trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Phạm Tiến Duật cũng sử dụng hình ảnh bếp lửa Hoàng Cầm:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Những người lính cũng nhờ quây quần bên bếp lửa, khiến cho người đọc thấy được sự khăng khít và đoàn kết như những người cùng một gia đình.
Hình ảnh người bà thân thuộc hiện lên trong Bếp lửa, là hình ảnh người bà gắn bó và yêu thương trong suốt quá trình trưởng thành của tác giả. Bà được miêu tả như một người phụ nữ đang chờ đợi bếp lửa chờn vờn sương sớm, với tình yêu và lòng nồng đượm dành cho ngọn lửa này.
Bà đã trải qua những thời gian đói nghèo, khi cha đi đánh xe, mẹ cùng cha công tác bận rộn không có thời gian về nhà. Nhưng ngay cả trong hoàn cảnh khó khăn, bà vẫn dành thời gian chăm sóc cháu, dạy dỗ, định hướng cho tương lai của cháu. Hình ảnh đó quen thuộc biết bao, đến nỗi khi đi xa, nhìn thấy chỉ một ngọn khói tàu cũng nhớ đến bà nơi quê xứ.
Còn Xuân Quỳnh, hình ảnh người bà thân yêu lại hiện lên qua những tiếng gà văng vẳng trong Tiếng gà trưa:
Tiếng gà trưa
Có tiếng bà vẫn mắng:
– Gà đẻ mà mày nhìn
Rồi sau này lang mặt!
Trong năm khổ thơ giữa, tiếng gà trưa đã gợi nhớ bao kỉ niệm sâu sắc một thời thơ bé sống trong tình yêu thương của bà. Quên sao được lời mắng yêu chân thật, giản dị mà chan chứa bao tình thương của bà. Những kỉ niệm rất đỗi đời thường, bình dị mà sâu sắc, chân thật.
Cháu chiến đấu hôm nay
Vì lòng yêu Tổ quốc
Vì xóm làng thân thuộc
Bà ơi, cũng vì bà
Vì tiếng gà cục tác
Ổ trứng hồng tuổi thơ.
Tác giả đã điệp từ “vì” để nhấn mạnh nguyên nhân khiến người chiến sĩ ra đi chiến đấu. Không phải bắt nguồn từ những nguyên nhân to lớn nào khác mà chính là vì bà, nơi quê hương thân thuộc có tiếng gà cục tác, ổ trứng hồng tuổi thơ.
“Bà” – Một tiếng gọi bình dị mà chan chứa bao tình cảm yêu thương. Hình ảnh người bà thân quen trong cuộc sống, hiền hậu ôn tồn chỉ bảo cho con cháu nhân đạo và lẽ đời. Người bà luôn yêu thương, quan tâm và lo lắng cho những đứa cháu nghịch ngợm….
Có thể nói, thông qua hình ảnh người bà trong cả hai tác phẩm, ta đều thấy được đó chính là đại diện của người phụ nữ Việt Nam khi xưa. Người bà được miêu tả như một người phụ nữ đơn giản, chân thật, với những đặc trưng văn hóa truyền thống của dân tộc, như sự hiền hậu, chất phác và những giá trị gia đình.
“Bếp Lửa” là một bài thơ đơn giản nhưng đầy tâm hồn, gợi lên nhiều cảm xúc và suy ngẫm sâu sắc về cuộc sống gia đình, quê hương, tình cảm thân thương và giá trị truyền thống. Bài thơ thể hiện tình yêu và lưu luyến của tác giả đối với nơi gắn bó của người phụ nữ trong gia đình, nơi mà tình thân được nuôi dưỡng, đem lại hạnh phúc và ấm áp.
Mẫu 5
“Đừng đánh mất quá khứ vì với quá khứ, người ta xây dựng tương lai” Thật vậy, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “Uống nước nhớ nguồn” đó là truyền thống lâu đời của con người Việt Nam. Truyền thống ấy đã được nhắc đến rất nhiều trong các tác phẩm văn học từ bao đời nay.
Nổi bật là hai bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy và “Bếp lửa” của Bằng Việt. Qua các tác phẩm, các tác giả đã kín đáo bộc lộ những suy nghĩ, những chiêm nghiệm về một lẽ sống ân nghĩa thuỷ chung cao quý trong cuộc đời mỗi con người.
Bằng Việt và Nguyễn Duy đều đã từng sống, trải qua những năm tháng khó khăn, thiếu thốn, khốc liệt của chiến tranh và được cưu mang, đùm bọc,sẻ chia… nên khi viết những tác phẩm này, hai nhà thơ đã được hưởng cuộc sống hoà bình, ấm no, hiện đại.
Cả 2 tác phẩm đều gợi nhắc đạo lí về lòng biết ơn, lối sống ân nghĩa, thuỷ chung đối với mỗi người.Dù là lòng thương nhớ, biết ơn bà hay ân tình với nhân dân, đất nước thì đều có chung một nét đẹp nhân văn – đạo lí uống nước nhớ nguồn.
Nét đẹp ân nghĩa, thuỷ chung trong bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt đó là tình cảm của người cháu đối với bà khi đã trưởng thành, xa nhà. Nơi đất khách nhưng người cháu vẫn đau đáu nhớ về bà, nhớ về những năm tháng tuổi thơ xa cách cha mẹ, gắn bó với bà. Những năm tháng đói khổ được bà chăm sóc.
Cháu nhớ bà, xót xa, thương cảm thấu hiểu cuộc đời của bà cơ cực, gian nan mà giàu đức hi sinh. Nhớ về những kỉ niệm thời thơ ấu bên bà: Bà chăm sóc, nuôi dưỡng, dạy dỗ cháu. Cuộc sống khó khăn, cuộc đời nhiều gian khổ nhưng tấm lòng bà vẫn bền bỉ, mênh mông, giàu đức hi sinh.
Hình ảnh “bếp lửa” bình dị, thân thuộc nhưng cũng là hình ảnh kỉ niệm tuổi thơ, gian khó nhọc nhằn, ấm áp tình bà cháu, xóm làng. Lớn hơn, “bếp lửa” trong bài thơ chính là hình ảnh quê hương, cội nguồn – nỗi nhớ trong lòng người xa quê. Người cháu không nguôi nhớ về bà, nhớ về quê hương cội nguồn.
Không thể không nhắc đến nét đẹp ân nghĩa thủy chung trong bài thơ “Ánh trăng”. Trong bài thơ này, truyền thống ân nghĩa, thuỷ chung được thể hiện qua lời tâm tình của nhân vật trữ tình. Gợi nhớ kỷ niệm tuổi thơ đẹp đẽ gắn bó với thiên nhiên, quê hương. Trân trọng những sẻ chia trong những năm tháng gian lao, vất vả ở những năm tháng chiến tranh.
Ánh trăng là hình ảnh của thiên nhiên, là người bạn tri kỷ là biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình, vẻ đẹp vĩnh hằng của cuộc sống. Cũng giống như hình ảnh “bếp lửa”, “ánh trăng” nhắc nhở, thức tỉnh con người lối sống ân tình, ân nghĩa, đừng bao giờ lãng quên quá khứ.
Mỗi bài thơ là một hình ảnh, một mạch cảm xúc nhưng đều sâu lắng, thiết tha. Cả hai bài thơ đều khẳng định: hãy sống ân tình, thuỷ chung với quê hương, với quá khứ, với lịch sử và nhân dân. Chẳng ai hạnh phúc nếu không biết trân trọng, tri ân và chung thuỷ với quá khứ.
Ánh trăng” của Nguyễn Duy, “Bếp lửa” của Bằng Việt gợi lại bao suy nghĩ , chiêm nghiệm về một lẽ sống ân nghĩa thủy chung cao quý trong cuộc đời. Có bao giờ ta tự hỏi tại sao cũng chỉ là những hình ảnh quen thuộc thôi mà con người lại có thể nhìn thấy bao điều? Nó níu giữ con người khỏi bị trôi trượt đi bởi những lo toan tất bật hằng ngày, nó bảo vệ con người khỏi những cám dỗ tầm thường. Và trên hết, nó luôn hướng con người đến những giá trị bền vững của cuộc sống.
Trên đây là tổng hợp các mẫu mở bài Bếp lửa xuất sắc nhất mà chúng tôi đã chọn lọc được, hy vọng những mẫu văn này sẽ giúp cho các bạn có được những bài văn hay. Chúc các bạn có những bài văn thật tốt và đạt được điểm cao tuyệt đối trong các kì thi.
Đông Đông là một tác giả nổi bật trên website Yêu Văn Học, nổi tiếng với những bài viết sâu sắc về văn học, phân tích tác phẩm và giới thiệu tác giả. Đam mê văn chương, ông cung cấp cái nhìn tinh tế và hấp dẫn về thế giới văn học.
Bình Luận